Thiền sư Tông Diễn & hành trình tìm lại người mẹ ly biệt


– “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật”.

Với ý thức đó, đọc lại lịch sử Phật Pháp Việt Nam, nhất là qua gương sống của chư vị thiền sư, các bậc xuống tóc, ngoài công hạnh tu tập, hành đạo, chúng ta còn gặp nhiều câu chuyện hiếu đạo khôn cùng đặc biệt. Trong số đó, phải kể đến Thiền sư Tông Diễn.

Chuyện ghi lại rằng, Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chân Dung (1640-1711), người thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Sư là Tổ thứ 2 của dòng thiền Tào Động ở Việt Nam. Ngoài đạo nghiệp, cuộc đời của Thiền sư Tông Diễn còn có một sự tích rất cảm động lòng người. Đó là câu chuyện về lòng hiếu hạnh của ngài với người mẹ của mình.

Sư mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tần tảo chạy chợ buôn bán để nuôi sư. Năm sư 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng”. Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, hình như khóc rơi từng giọt nước mắt. thương xót quá, sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết.

Đến trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết”. Bà mẹ nổi xung, bỏ bữa cơm, chạy lấy roi đánh sư một trận như lôi đình. Sợ quá, sư chạy một mạch không dám ngó lại. Từ đó sư và mẹ ruột ly biệt.



Sau khi chạy khỏi nhà, sư mệt quá ngất đi và được một sư cụ đưa về chùa cưu mang. Từ đó sư ở chùa và rồi xuống tóc. Sau khi đã tu hành sáng đạo, một bữa sư tọa thiền, lòng bỗng nhớ đến người mẹ xưa. Ngài nghĩ mẹ giờ chắc đã già yếu không có ai chăm nom. Người tu hành trường đoản cú đời sống gia đình nhưng ơn sinh thành dưỡng dục thì phải đền đáp. Nghĩ vậy ngài liền về quê cũ tìm mẹ nhưng tìm không ra. bởi sau buổi lỡ giận đánh con đó, mẹ ngài cũng ân hận đi lang thang khắp nơi tìm con.

Đến hơn ba mươi năm sau, người mẹ thì cũng già yếu nên trở về quê cũ và mở một quán nước để làm kế sinh nhai và tiện việc hỏi han tin tưởng.# con mình. Suốt mấy chục năm bà chỉ mong tìm được đứa con trai duy nhất để nói một câu xin lỗi, có thế thì mới yên lòng nhắm mắt nhắm mũi và gặp lại chồng dưới suối vàng.

Về phần mình, sư vẫn dò xét tin cẩn về người mẹ đã ly biệt. Một dịp, sư lại về làng cũ và vào quán trà của bà lão uống nước. Thấy bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách, đợi đến lúc bà lão rảnh, sư mới hỏi thăm lai lịch. Bà thở dài than:

– Bạch sư cụ, chồng tôi mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút đỉnh tiền sống lắt lay qua ngày.
Sư hỏi:

– Cụ có muốn vào chùa không, nếu cụ đồng ý thì chúng tôi xin thỉnh cụ về chùa để nương bóng từ bi trong những tháng ngày còn lại.
– Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.

Sư nói:
– Cụ đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm đôi chút, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.

Bà lão thấy sư có lòng tốt bèn nói:

– Nếu sư cụ thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.
Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, sư họp Tăng chúng nơi sư đang trụ trì hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều đồng thuận mời bà lão về chùa. Sư cho cất một am tranh trong khuôn viên chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư xoành xoạch nhắc nhỏm bà tu hành và mỗi sáng đều qua am thăm hỏi bà lão.

Được một thời kì, bà lão lâm bệnh, sư tự thân nấu cháo chăm nom bà lão khiến các môn đệ đều thấy lạ. Biết bà lão không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng dăm bảy hôm nên trước khi đi, sư căn dặn mọi người: Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng cứ làm đủ lễ nghi nhưng khi liệm thì đừng vội đậy nắp cỗ ván, đợi sư về sẽ đậy sau.

Đúng như lời sư đoán, bốn năm hôm sau bà chết, Tăng chúng làm đúng như lời sư dặn, chỉ để bà trong hậu sự mà không đậy nắp. Hai hôm sau sư về, nghe bà lão mất còn để trong hậu sự. Sư về nhìn mặt lần chót, đi quanh săng 3 lần rồi đậy nắp quan liêu. Sau đó sư nói to:

– Như lời kinh Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo ba má sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.

Nói xong sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, hậu sự từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Lúc ấy mọi người mới biết bà lão là mẹ của sư.
Hòa thượng vừa dứt tiếng, chiếc săng bỗng như có một lực đẩy, từ từ nâng lên cao, sát mái am tranh, lửng lơ. Mọi người đồng loạt quỳ xuống, chắp tay, ngẩng mặt nhìn lên trong một niềm kính ngưỡng tột độ. Mắt Hòa thượng sáng ngời, an trú trong giây phút hiện tại nhẵn, một giây mà đằng đẵng thiên thu.

Tâm hiếu của người con hòa lẫn trong tâm từ của một bậc chân tu đắc đạo, nở tung như đóa sen tỏa hương trong sáng, tuy vô hình mà bạt tử, tuy vô thanh mà tràn đầy âm hưởng diệu kỳ, tuy vô tướng mà chan hòa khắp cùng cõi giới.

Khi chiếc áo quan nhẹ nhõm trở về chỗ cũ, người ta thấy khuân mặt bà cụ – bây giờ đã rõ là thân mẫu của sư trụ trì – tươi nhuận rạng rỡ. Mùi hương lạ lại tỏa ra phảng phất quanh nhà. Mọi người đứng bất động, đắm mình trong niềm phúc lạc ngàn năm chưa dễ có.
Nơi quán nước ngày xưa của mẹ, sư bèn lập một ngôi chùa đặt tên là Mại Trà Lai tự. Am tranh mẹ từng ở có tên là Dưỡng Mẫu đường, sớm chiều nhang khói ngùn ngụt.

Đó là một trong nhiều câu chuyện trong hành trạng của vị thiền sư Việt Nam đạo phong, liên quan tới hiếu đạo của người xuất gia. Ngài cũng là người sống gần dân, được người dân yêu quý gọi bằng tên mộc mạc là Hòa thượng Cua.

Cách báo ân thâm ân bác mẹ của Thiền sư Tông Diễn đã lưu mãi trong lòng người, vượt cả thời kì. Hình tượng và hạnh hiếu đó không chỉ lưu truyền trong dân gian mà đã được xây dựng thành hình tượng nghệ thuật, được chuyển thể qua các loại hình sàn diễn, làm rung động lòng người nhiều đời. – GN