Thiên nhiên đã ưu ái cho sam son một vẻ đẹp kỳ thú, nên thơ với nhiều tích sử – một tài sản vô giá của Sầm Sơn từ ngàn xưa mang lại. Trong lần về thăm và làm việc với tỉnh Thanh Hoá (ngày 17 – 19 tháng 7 năm 1960),

vị trí nằm tại bờ Vịnh Bắc Bộ, địa hình Sầm Sơn tương đối bằng phẳng, là vùng sơn thuỷ hữu tình với nhiệt độ trong lành, dải bờ biển cát vàng thoai thoải, nước trong xanh soi bóng núi Trường Lệ với những di tích văn hoá đã được xếp hạng quốc gia (Ðền Ðộc Cước, Ðền Cô Tiên, Hòn Trống Mái…). Hơn nữa, tx.sầm sơn bao la là nơi trực tiếp làm nên nguồn hải sản phong phú như tôm, cá mực, cua, các loại hải sản quý khác… Mặt khác, Sầm Sơn có bề dày lịch sử, truyền thống văn hoá lâu đời, với các hoạt động văn hoá mang đậm bản sắc quê hương như lễ hội bánh chưng – bánh dày (ngày 12-5 âm lịch hàng năm). Với những mấu chốt này, Sầm Sơn có nhiều điểm cộng trong sự tăng trưởng của ngành du lịch và thuỷ sản.


Lấy ngành du lịch làm cần thiết

Sầm Sơn là một trong những nơi đó có tieengs, là niềm tự hào của ngành nghỉ dưỡng Thanh Hoá và cũng là của ngành du lịch Việt Nam. Ngay từ thời Pháp thuộc, làng núi Sầm Sơn cùng bãi biển chân núi Sầm được coi là khu nghỉ mát cho các quan chức người Pháp, dần dần trở thành bãi tắm lý tưởng lôi cuốn du khách thập phương. Sau năm 1960 và nhất là từ 1980 đến nay, Sầm Sơn thực sự trở thành Tx. nghỉ dưỡng, nghỉ mát được nhiều người biết đến.

Thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng và Nhà nước, chính quyền và nhân dân thị xã Sầm Sơn đã phát huy thế mạnh sẵn có, lấy nghỉ dưỡng làm ngành kinh tế trọng điểm trong lớn mạnh kinh tế – xã hội. Do vậy, kể từ năm 1996 trở lại đây, được sự hỗ trợ của Nhà nước, của tỉnh và sự đóng góp của nhân dân địa phương, Sầm Sơn đã đầu tư hàng trăm tỷ đồng lớn mạnh bố trí hạ tầng như: khách sạn, giao thông, điện, nước và khu vui chơi giải trí,… Khi đến với Sầm Sơn Quý khách có thể lựa chọn khách sạn điện lực sầm sơn thanh hoá đầy đủ các khách sạn đều được đầu tư tôn tạo khang trang với những trang vật dụng phát triển, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Ðặc biệt, Tx. đã tập trung tôn tạo bố trí hạ tầng, cơ sở vật chất – khoa học, hoàn thiện và đưa vào chuyên dụng cho Khu du lịch văn hoá – vui chơi giải trí “Huyền thoại thần Ðộc Cước” và “Khu nhà luyện tập và thi đấu thể dục thể thao tổng hợp”; tiến hành quy hoạch: Khu sinh thái Quảng Cư, Khu du lịch văn hoá núi Trường Lệ. do đó, số lượng khách đến với Sầm Sơn ngày một tăng. Nếu như năm 1996 là 506.740 khách/ngày thì đến năm 2002 tăng 60%, đạt 815.500 khách/ngày, dự kiến năm 2003 đạt 880.000 khách/ngày. Doanh thu từ ngành du lịch cũng liên tục tăng cao, từ 34 tỷ đồng (năm 1996) lên 77,058 tỷ đồng (năm 2002), đưa tỷ trọng ngành nghỉ dưỡng trong cơ cấu kinh tế từ 40% (năm 1996) tăng lên 46,33% (năm 2002).

Kết quả nêu trên cho thấy, ngành nghỉ dưỡng ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế thị xã Sầm Sơn và bền vững theo hướng thịnh phát. Vai trò đó được khẳng định bằng tác động tích cực tới sự cường thịnh kinh tế – xã hội của Sầm Sơn như: cuốn hút hàng ngàn lao động tham gia marketing dịch vụ nghỉ dưỡng; thay đổi tư duy, cách nghĩ thủ thuật của dân chúng trong cơ chế thị trường; tạo ra phát triển trình độ dân trí của dân cư, đặc biệt là nhận thức về du lịch. hơn thế nữa đó, cộng sự hỗ trợ của Nhà nước, nguồn thu từ du lịch được đầu tư xây dựng các công trình phúc lợi như: trạm y tế, trường học, đường điện, giao thông; xây dựng các danh lam nơi đó và khu di tích, tạo ra làm thay đổi nhanh diện mạo của thị xã Sầm Sơn.

hướng đi công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản

cộng nghỉ dưỡng, trong những năm qua, ngành thuỷ sản cũng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Sầm Sơn. Mặc dù đường bờ biển của thị xã chỉ dài 9 km, (trong đó khu vực dành cho nghỉ dưỡng là khá lớn), nhưng Sầm Sơn vẫn là nơi có nguồn lợi hải sản lớn của tỉnh Thanh Hoá. thị xã sầm sơn được các chuyên gia trong ngành thuỷ sản đánh giá là có trữ lượng hải sản khá lớn, nhiều chủng loại. Ngay từ xa xưa, đánh bắt, chinh phục biển đã trở nên truyền thống của dân cư Sầm Sơn.

Phát huy truyền thống sẵn có, hòa hợp với ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào cung ứng, hoạt động khai thác hải sản trong quá trình hiện nay (1996 – 2002) đã có bước vững chắc nhảy vọt cả về lượng và chất. Trong đó, Tx. đã từng bước thực hiện chuyển đổi cơ cấu thuyền nghề theo hướng giảm áp lực khai thác ven bờ, bài trừ dần các phương tiện nhỏ, lạc hậu, đầu tư trang đồ vật đánh bắt mới với công suất lớn, trang bị máy móc phát triển, công nghệ khai thác tiên tiến, làm nên tăng sản lượng khai thác, năng suất lao động, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản gần bờ, từng bước đưa nghề khai thác thủy sản vững bền theo hướng công nghiệp hoá, phát triển hoá. Số lượng tàu thuyền gắn máy các loại tăng nhanh, nếu như năm 1996 tổng số tàu thuyền có 513 chiếc thì đến năm 2000 tăng lên 805 tàu gắn máy, 110 tàu đánh bắt xa bờ. Ðặc biệt, ngư dân Sầm Sơn đã được Nhà nước đầu tư 68 dự án gồm 79 tàu có công suất lớn từ 90CV đến 254CV dùng chính vào đánh bắt xa bờ. Nhờ vậy, sản lượng khai thác tăng đều qua các năm, từ 5.234 tấn (năm 1996) lên 8.500 tấn (năm 2002), dự kiến năm 2003 đạt 9.500 tấn. Trình độ chuyên môn khoa học về đánh bắt hải sản và dùng cho thiết bị, máy móc của ngư dân dần được nâng cao. Sự có mặt của ngư dân ngoài khơi xa còn làm nên bao bọc nguồn lợi hải sản, chống lại sự xâm nhập trái phép của tàu nước ngoài, bao bọc vùng biển của Tổ quốc.

1) Khu trung tâm kéo theo:

– Trung tâm hành chính – chính trị như cơ bản gần đây là ưa chuộng.

– Trung tâm thương mại – dịch vụ: xây dựng tại các bãi tắm, khu du lịch, dọc hai bên bờ biển tại các vị trí yêu thích, khu trung tâm chính ở phía Nam đường Lê Lợi và phía Ðông đường Nguyễn Du.

– Trung tâm văn hoá – thể thao: núi Trường Lệ, khu nhà hát nhân dân, phường Trung Sơn và Quảng Cư.

– Trung tâm khu vực: tại mỗi phường, xã.

2) Khu khách sạn – nhà nghỉ:

– Cải tạo, nâng cấp các cơ sở hiện có tại các phường nội thị Bắc Sơn và Trường Sơn theo hướng phát triển.

– xây dựng mới khách sạn, nhà nghỉ chuyên dụng cho du lịch, nghỉ mát, dưỡng sức tại dải đất ven biển thuộc xóm Vinh Sơn, phường Trung Sơn và khu hồ đầm Quảng Cư.

– thịnh phát về phía Nam Sầm Sơn các khách sạn, nhà nghỉ khi xã hội có nhu cầu.

3) Khu du lịch – vui chơi giải trí – tắm biển: xây dựng ba khu vực chính áp dụng trong nhu cầu vui chơi giải trí có nội dung hoạt động khác nhau:

– Trên núi Trường Lệ: dùng chính vào cho nghỉ dưỡng văn hoá – vui chơi.

– Khu nghỉ dưỡng sinh thái Quảng Cư: nét đặc biệt của khu vực này là du lịch sinh thái.

– Tắm biển: tại các bãi tắm, tăng cường công tác vệ sinh môi trường, chất lượng an toàn khi tắm biển.

4) Khu công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp:

– xây dựng khu công nghiệp chế biến hải sản và dịch vụ cho chế biến hải sản, đóng, sửa tàu thuyền… tại khu vực Quảng Tiến, Quảng Cư.

– vững chắc tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhu cầu hữu dùng trong nước và xuất khẩu trong các hộ gia đình.

– xây dựng những cơ sở chế biến lương thực, thực phẩm ở phường Trường Sơn sử dụng du lịch nghỉ mát.

5) Kho – bến cảng: chính tôn tạo 2 cảng ở Quảng Tiến và Quảng Cư.

6) Khu dân dụng: quy hoạch lại các khu dân chúng hoàn chỉnh, xây mới và kiên cố hoá các nhà dân, phần đất còn lại trồng cây xanh để tạo cảnh sắc sử dụng cho du lịch.

Quy hoạch tổng thể tx.sầm sơn phải nhằm mục đích du lich sam sonvững chắc kinh tế – xã hội của Tx. trong mối quan hệ với định hướng vững chắc kinh tế – xã hội của tỉnh Thanh Hoá và các tỉnh phía Bắc. Ðồng thời phải nỗ lực phát huy hơn nữa điểm nhấn kinh tế biển, đưa các ngành nghỉ dưỡng, thuỷ, hải sản và công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp có thể ngành kinh tế mũi nhọn của thị xã theo đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, làm nên sức bứt phá mạnh mẽ, đưa Sầm Sơn bắt kịp với xu thế vững mạnh chung của đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, cải tiến hóa.